Thứ Năm, 25 tháng 12, 2008

Nỗi buồn 58 năm

Anh rể tôi là Lê Văn Tấn, sinh năm 1939. Cha anh ,ông Lê Văn Vân, là công nhân đồn điền cao su ở Trảng Bom . Vì tham gia cách mạng nên cha anh bị địch bắt và đày ra Côn Đảo . Sau khi ông bị địch bắt, gia đình phải chuyển chỗ ở. Sau một thời gian đến chỗ ở mới thì anh thoát ly theo cách mạng vào năm 1950 (khi anh mới 11 tuổi). Khi ấy anh có một người em gái là Lê Thị Tới . Năm 1954 anh tập kết ra Bắc và từ khi thoát ly (1950) đến nay anh không nhận được một tin tức gì trực tiếp của người thân . Chỉ có một lần , một người cũng là bộ đội miền Nam tập kết có kể với anh rằng có gặp mẹ anh là bà Cao Thị Đầm, bà đã đi bước nữa và có một người con gái nữa tên là Ngọ. Anh nhớ rằng khi anh thoát ly thì cô anh , bà Lê Thị Nhuần đang công tác ở tỉnh đội Biên Hòa. Anh rể tôi luôn khẳng định anh quê ở Trảng Bom.

Từng ấy thông tin đối với một cậu bé 11 tuổi , mà trước đó vài năm đã sống thiếu cha, đã là quá nhiều. Nhưng nó lại vô cùng ít ỏi cho một cuộc tìm kiếm, nhất lại là một cuộc tìm kiếm sau 58 năm với biết bao nhiêu là bom đạn, chia cắt, chiến tranh, giặc giã…Bản thân anh rể tôi cũng đã có nhiều lần cất công tìm kiếm hàng tháng trời nhưng kết quả thì ngày càng vô vọng.

Những điều anh nói ra anh tin là như vậy, cả gia đình tôi đều tin như thế . Chắc là những người quen biết anh cũng tin như thế. Anh rể tôi , nhất là từ sau khi về hưu thì hay ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi xem còn chỗ nào mà mình chưa tìm tới .Và khi có chương trình NCHCCCL trên VTV1 thì anh chị tôi quyết định nhờ đến chương trình coi như là còn nước còn tát. Những người làm chương trình đều không thấy có hy vọng nhiều. Tuy nhiên đội tìm kiếm của chương trình cùng với anh tôi ròng rã nhiều tháng trời đã quần nát khu vực Đồng Nai , Trảng Bom . Nhưng vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Và câu hỏi „Mình là ai?“ đã hành hạ anh tôi trong suốt 58 năm trời.

Nhưng cho đến ngày 3-5- 2008 khi chương trình „Như chưa hề có cuộc chía ly“(NCHCCCL) số 6 được phát sóng trên VTV1 thì có một người đã phát hiện ra những sai lầm „chết người“ của anh rể tôi. Và kỳ lạ hơn, người đàn ông này ra đời sau anh rể tôi những 8 năm và quê lại tít tận Nam Định.

Trong chương trình NCHCCCL Số 7 phát ngày 7-6-2008, người đàn ông này đã bay từ Nam Định vào TP HCM và tại trường quay ông đã trình bày một bản gia phả to bằng cái chiếu . Ông tự giới thiệu ông tên là Lê Văn Tự, trưởng chi họ Lê thôn Trung Phụng xã Hải Quang, Hải Hậu ,Nam Định . Bố ông là ông Lê Văn Toán.là anh cả của gia đình có 5 anh em .Ông Toán có 3 người con. Hai con đầu là liệt sỹ. Do vấy ông Tự tuy là con út nhưng bây giờ lại là trưởng họ. Sau giải phóng nhờ sự gặp gỡ với 1 anh bộ đội quê ở Nam Định đóng quân gần nhà cô Nhuần , đại gia đình họ Lê đã cử người vào tìm được cô Nhuần và cô em họ Lê Thị Tới . Đồng thời cũng biết được tin bà Cao Thị Đầm đã đi bước nữa ở Long Khánh. Ông Tự chỉ vào bản gia phả và nói: chú Lê Văn Vân , vào năm 1940 , đã đưa vợ là bà Cao Thị Đầm là người cùng làng và con là Lê Văn Tấn (lúc đó mới 1 tuổi) cùng với cô là bà Lê Thị Nhuần vào Nam làm phu cao su. Năm 1960 gia đình ông đã nhận được bưu thiếp của bà Cao Thị Đầm báo tin chồng đã bị giặc bắn chết tại Suối Đen , Biên Hòa và con trai là Lê Văn Tấn thì thất lạc, hoàn toàn không có tin tức gì. Gia tộc họ Lê cũng rất để ý tìm kiếm anh Tấn nhưng tuyệt nhiên không có một tia sáng mong manh nào… Cho đến tận ngày 3-5 -2008 ông Tự đã ngồi trước tivi để xem chương trình NCHCCCL số6… Và sau đó thì mọi chuyện chỉ còn là vấn đề kỹ thuật của đội tìm kiếm dưới sự điều hành của Thu Uyên…

Vậy là với lòng tha thiết mong mỏi đến tột cùng tìm được người ruột thịt, sự kiên quyết bền bỉ quyết không để cho gia phả bị đứt mạch của một dòng họ lại gặp được những tấm lòng cao thượng của những người làm chương trình NCHCCCL, anh rể tôi sau 58 năm đã gặp lại được 4 người em ruột và cả đại gia đình trong Nam ngoài Bắc. Điều đặc biệt là các em của anh dù hoàn toàn sống ở trong Nam nhưng lại nói tiếng Bắc (chắc là vì được sống với mẹ), chỉ có anh có 21 năm sống ngoài Bắc nhưng lại nói rặt tiếng Nam . Và bây giờ anh mới biết rằng quê anh là ở Hải Hậu, Nam Định . Thật là đáng tiếc vì mẹ anh chỉ vừa mới mất cách đây 6 năm , còn cô anh chỉ vừa mới mất cách đây có 3 năm. Nếu như hàng bao nhiêu lần trước đây và gần đây cùng với đội tìm kiếm khi đến Trảng Bom anh không rẽ phải mà rẽ trái (em gái anh ở xã Quảng Tiến nằm ở bên trái Trảng Bom). Nếu như ngay sau giải phóng ở những nơi anh đã đi tìm gia đình : Biên Hòa , Đồng Nai, Long Khánh , Vũng Tàu anh đến gặp chủ tịch xã(vì cô ruột anh lúc ấy là chủ tịch xã của 1 trong những xã mà anh đã đi qua )…Nhưng thực ra chữ" nếu" chỉ có trong suy nghĩ của con người chứ lịch sử thì làm gì có chữ nếu!


Suốt cả cuộc đời, anh rể tôi chỉ hy vọng tìm được một người thân cũng được, nay anh đã tìm được 4 người em ruột . Mỗi người đều có 7-8 người con và 14-15 cháu nội, ngoại . Vừa rồi chị tôi viết thư cho tôi kể về chuyến đi về quê Hải Hậu, Nam Định là "họ hàng đông không kể xiết". Cuộc đoàn viên kỳ lạ này sẽ được phát trên NCHCCCL vào ngày 03-1-2009 . Ở vào tuổi 70 anh rể tôi mới biết quê của mình là ở miền Bắc chứ không phải miền Nam . Bốn người em của anh đều theo đạo, vì theo nếp nhà , còn anh lại là người vô thần .


Tôi viết những dòng này vào dịp Noel 2008. Vào tối hôm Noel cứ 2 người Đức thì có một người đi đến nhà thờ. Cả những người cựu giáo và tân giáo đều tin có Chúa trời . Tôi không hiểu có Chúa trời thật hay không ? Nhưng có lẽ có tồn tại một thế lực quyền năng nào đó . Quyền năng này không phải là con người nhưng lại rất thấu hiểu con người . Không phải là con người vì con người thì làm sao có đủ kiên nhẫn để bày ra một thử thách cho một con người khác đến những 58 năm ? Nhưng quyền năng này lại rất thấu hiểu con người nên nó có thể biến những giấc mơ tưởng chừng như không tưởng, nhưng hợp đạo lý đất trời, thành hiện thực.

Ảnh : Hai anh em gặp lại sau 58 năm (Ảnh nguồn Thanh Niên Online )


Thứ Hai, 8 tháng 12, 2008

Thảm kịch ở Aden và câu chuyện Mogadischu

(tiếp theo và hết)

PHẦN 4 : CHUYỆN HÔM NAY

Cô chiêu đãi viên trẻ nhất trong phi hành đoàn Gabi chứng kiến cảnh ông Schuman bí một phát đạn xuyên qua đầu đổ vật trước mặt mình . Lúc ấy cô đã khóc rất to mặc cho hăm dọa . Cô cảm thấy như không còn gì ý nghĩa nữa . Chỉ đến khi ở Mogadischu khi nghe thấy tiếng súng nổ và tiềng thét :Tất cả cúi đầu xuống ! Thì Gabi mới tin rằng mình còn sống. Tuy nhiên một trái lựu đạn của bọn khủng bố ném ra đã khiến cô bị thương ở chân . Rất may đó chỉ là mảnh thủy tinh bắn vào. Khi về đến Frankfurt (Mai) người đầu tiên mà cô nhìn thấy là Rüdeger với cặp mắt tràn đầy nước mắt . Có ai thay thế được anh ấy không ? Tháng 4-1978 họ làm đám cưới . Cũng trong năm ấy cô đẻ con trai đầu, 10 năm sau thì có cô con gái thứ hai.
Gabi nói , biến cố đã làm cho cô trở thành một người khác . Không sợ bay nhưng rất nhạy cảm với các động tác của hành khách. Cô còn bay đến năm 1980 thì chuyển sang làm nghệ thuật . Thử sức với vài loại chất liệu, cuối cùng cô phát hiện ra gỗ là nơi có thể thể hiện được mình . Hiện nay tác phẩm của Gabi được bày bán ở khắp châu Âu . Có người nói lẩn khuất đâu đó trong tác phẩm của Gabi vẫn có một chút gì đó của „Mogadishu“ . Gabi có một trang Web riêng để giới thiệu các tác phẩm của mình : www.lutzau.de. Cô Gabi năm xưa nay đã 54 tuổi và tên gọi đầy đủ là :Gaby von Lutzau , tuy nhiên mọi người vẫn quen gọi là „ Thiên thần „Mogadischu“. Cho đến bây giờ „Thiên thần „ vẫn thỉnh thoảng giở chiếc nhẫn của người hành khách Do Thái trên „Lanshut“ mà cô cứu, đã tặng trước lúc chia tay cách đây 31 năm, ra xem . Và coi đó như một niềm vinh dự của đời mình.
"Người hùng Mogadishu " Wegener năm nay đã 78 tuổi , về hưu đã lâu, sống cùng vợ ở ngoại ô Bonn . Khi tấn công lên "Landshut " vì phía Somalia chỉ cho phép mang vào đất nược họ đúng 30 chiếc áo giáp . Nên khi kiểm tra lần chót trước khi tấn công ông phát hiện ra có một người nhóm trưởng không có áo giáp . Người này đã có vợ , con. Ông bèn nhường áo giáp của mình cho người này. Áo giáp chống đạn hồi ấy có 16 lớp. Khi cuộc tấn công kết thúc thì chính ông này phát hiện ra có một đầu đạn nằm ở lớp thứ 14.
Cho đến bây giờ ông Wegener vẫn khẳng định : Chúng tôi đến Mogadischu để cứu người chứ không phải để giết người ! Và chúng tôi đã đạt được điều đó !
Chúng ta hẳn còn nhớ mẹ con người hành khách suýt chết ở phần 1 của bài viết này : bà Birgitt Röhll ? Bà ngồi ở hàng ghế thứ 11, chỉ cách xác ông Schuman có vài hàng ghế . Khởi đầu khi bắt đầu tấn công bọn không tặc tiến lên từ phía sau . Bây giờ khi đi nhà hàng bà luôn chọn chỗ lưng áp sát vào tường. Mỗi năm bà vẫn đều đặn đi máy bay đến Mallorca để nghỉ và thăm bạn . Tuy nhiên khi" check in" được hỏi : Cửa sổ hay lối đi ? thì bao giờ bà cũng trả lời :Đâu cũng được nhưng nếu có thể thì cho tôi ngồi ở phía sau. Mà tốt nhất là hàng ghế cuối cùng!.

Nhà đàm phàn tài ba Wischnewski (người ta hay gọi thân mật là Ben Wisch) đã chết ở tuổi 85 vào năm 2005 . Lật lại báo chí vào thời gian ấy thấy tờ Spigel (Tấm gương) viết : Ông là một nhà chính trị hiếm hoi được rất nhiều người yêu mến.
Nhìn tấm ảnh chụp ông lúc đã già nhưng người ta vẫn cảm thấy ông là một người vừa uyên bác lại vừa ranh mãnh.
Ở một đoạn phim tài liệu quay cảnh ông Helmut Schmidt phát biểu trước quốc hội sau khi chiến dịch giải cứu kết thúc thắng lợi , đại ý : Trước những biến cố quan trọng , người ta có thể quyết định thế này hoặc thế khác. Các quyết định đó có thể đúng hay sai . Nhưng ở những sự việc phức tạp thì việc đúng hay sai phải trong tương lai mới biết được. Tuy nhiên tôi xin nhận lãnh tất cả trách nhiệm trong sự vụ này.
Ở trong đoạn phim tài liệu trích lại này người ta không thấy tiếng vỗ tay. Nhưng ở một đoạn phim tài liệu khác cũng trong thời gian này (1977) người ta thấy tiếng vỗ tay vang dội khi chính phủ CHLB Đức quyết định ngay một khoản viện trợ phát triển 200 triệu DM cho Somalia.
Ông Schmidt năm nay đã 89 tuổi. Sau khi xem xong phim "Mogadischu" tối 30-11 vừa rồi có một Blogger (chắc là cũng đã có tuổi ) đã viết : Xem phim xong tôi nhớ lại thời gian lúc đó (1977) . Khi được tin máy bay bị bắt cóc tôi nghĩ ngay : Chúng ta lại cần đến Helmut Schmidt ! Và quả thật ông ấy đã không làm chúng ta thất vọng.
Phi công phụ Vietor năm nay đã về hưu, 65 tuổi . Hồi đó khi bay "mù" đến Mogadischu trong điều kiện thời tiết rất xấu và tình trạng kỹ thuật máy bay không đảm bảo đã khiến cho Mahmud cũng phải cảm phục. Khi đến Mogadischu thì Mahmud đồng ý cho phép ông thoát khỏi máy bay. Nhưng ông kiên quyết ở lại với hành khách của mình. Về sau ông được nhà nước tặng huân chương "Vì những thành tích trong phục vụ ". Năm nay ông có ý định đi khắp đất nước Canada nhưng , ông bảo, bằng ôtô chứ không phải bằng máy bay.
Còn chiếc "Landshut" (vốn là Boeing 737) sau "Mogadischu" thì được sửa chữa lại. Bay tiếp cho Lufthansa chở khách cho đến năm 1985 . Cuối cùng nó làm máy bay vận tải tuyến Nam Mỹ . Đến 14-2-2008 thì do hư hỏng nặng, nó dừng bay.

Người ta không nhắc nhiều đến nhóm khủng bố. Có những hành khách trên chuyến bay đó nói rằng : Không nên bắt Mahmud phải chịu trách nhiệm, đơn giản chỉ vì là hắn bị bệnh.
Cũng có thể những người này thực hiện một cuộc khủng bố trên một chiếc máy bay bởi vì họ cảm thấy cả quê hương , đất nước và dân tộc họ cũng đang bị khủng bố ?.

Nhớ rằng trong phần 2 có nói rằng còn duy nhất "Con béo " sống sót. Tên thật của "Con béo " là Andrawes . Cô bị xử ở Somalia 20 năm tù , nhưng chỉ ở tù khoảng 2 năm thì được thả ra. Năm 1991 cùng chồng và con gái Laila ( năm nay 23 tuổi) chuyển đến Oslo. Nhưng tại đây đã bị cảnh sát Đức truy nã và dẫn độ về Đức năm 1994. Ra tòa ở Hamburg năm 1996 lãnh án 12 năm tù . Năm 1997 được chuyển về thi hành án tiếp tục ở Oslo. Tại đây đến năm 1999 thì được phóng thích vì lý do sức khỏe. Năm 1995 trả lời phỏng vấn trên Spiegel , Andrawes nói : Từ sau vụ Mogadischu xảy ra , một thời gian dài sau đó tôi sống trong sợ hãi.
Cuối tháng trước (11/2008) Andrawes đã không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của phóng viên báo Bild (Bức tranh) : Bà có cảm thấy ân hận với những việc làm của mình không ? mà chỉ nói : Tôi chỉ là một hạt cát nhỏ trong một vở kịch lớn.
Cũng vào tháng trước, qua 14 lần xét duyệt , tòa án tối cao Đức đã quyết định vào đầu năm sau, sẽ phóng thích tù nhân chung thân Klar sau 26 năm ngồi tù. Kristian Klar là một trong những lãnh đạo quan trọng của R A F . Klar phải chịu trách nhiệm trực tiếp ở 9 vụ giêt người (trong đó có vụ ông Schleyer nói ở các phần trên) và có liên quan đến 14 vụ mưu sát khác .
Dư luận dấy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ . Tất cả những người có liên quan đến „Mogadischu“ đều lên tiếng .
Ông Buback (con ông Schleyer ): - Cha tôi đã bị hạ sát lần thứ hai !
Gabi (nay la Gaby von Lutzau) :- Tôi không bao giờ tha thứ cho những kẻ khủng bố !
Ông Wagener :- Những nạn nhân của khủng bố sẽ chịu đau đớn đến hết đời . Còn những kẻ khủng bố thì không! Liệu có công bằng ?.
Ông Vietor đã trả lại tổng thống Horst Köhler chiếc huân chương mà ông đã nhận được sau vụ „Mogadishu“ cùng với một bức thư gửi cho tổng thống . Trong đó ông viết :- Việc phóng thích Klar là nhạo báng những nạn nhân của bọn khủng bố , cho dù họ còn sống hay đã chết !
Tất cả những người dù vô tình hay hữu ý có liên quan đến „Mogadischu“ đều không quên được nó . Và còn rất nhiều người nữa cũng không thể nào quên được. Có lẽ , „Mogadischu“ như một trong muôn lời nhắc nhở loài người khi kiêu căng cho rằng mình là loài hoàn thiện nhất trong muôn loài. Loài người có thể đã hoàn thiện về mặt thể xác . Nhưng về nhận thức thì còn rất nhiều, rất nhiều khiếm khuyết . Trong những khiếm khuyết ấy có những khiếm khuyết nguy hiểm. Nguy hiểm bởi vì nó dẫn đến hủy diệt chính loài người. Từ rất lâu, rất lâu rồi loài người đã biết gọi những khiếm khuyết ấy là tội ác.


Ảnh 1 : Rüdeger đón Gabi tại Frankfurt (Mai) 18-10-1977. Họ sống với nhau cho đến bây giờ.
Ảnh 2 : Gabi (Gaby von Lutzau) bên tác phẩm.
Ảnh 3 : Wegener 2008
Ảnh 4 : Gia đình bà Birgitt Röll ngay sau khi được giải cứu . Stefan 10 tuổi.
Ảnh 5 : Hai mẹ con bà Birgitt Röll 2008, con trai Stefan 41 tuổi.
Ảnh 6 : Wischnewski
Ảnh 7 : Vietor 2008
Ảnh 8 : Andrawes 1977
Ảnh 9 : Andrawes ảnh chụp 11/2008 trước căn hộ ở Oslo, chiếc nạng là hậu quả của "Mogadischu"
Ảnh 10 : Ông Schleyer bị bắt cóc (cảnh phim dựng lại)

(Ảnh nguồn báo Bild và Spiegel)

HẾT

Thảm kịch ở Aden và câu chuyện Mogadischu

(Tiếp theo)
PHẦN 3 : HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI VỢ GÓA VÀ BỘ PHIM TRI ÂN

Ngay sau khi vụ bắt cóc xảy ra, Lufthansa đã báo cho Monika Schuman vợ của cơ trưởng Jürgen Schuman biết . Bà đã trải qua bao lo âu sợ hãi . Nhưng không bao giờ bà nghĩ đến việc những kẻ bắt cóc lại bắn chết cơ trưởng .
Sau khi bị bắn chết ở Aden, xác ông Schuman nằm hàng tiếng đồng hồ trên lối đi . Những ai muốn đi toalet phải bước qua xác ông. Sau đó xác ông được nhét vào một chiếc tủ theo tư thế đứng. Khi đến Mogadischu xác ông được vứt xuống theo một cái máng. Hồi đấy chưa có cách nào để có thể nhận diện được ngay . Nhưng khi có thông tin báo về rằng trong túi xác chết có một quyển lịch bìa màu vang đỏ . Đến lúc ấy thì Monika muốn ngay lập tức bay đến Somalia. Tuy nhiên Lufthansa đã đưa ra rất nhiều lý do để ngăn cản bà và dần thì bà đoán ra có thể có một cuộc giải cứu .
Quyển lịch túi màu vang đỏ đến nay Monika vẫn giữ và nó dừng lại ở ngày 13-10-1977. Đó cũng chính là ngày mà số phận đã đặt lên vai bà một gánh nặng. Gánh nặng này theo đuổi bà suốt 31 năm qua.
Cuộc giải cứu „Landshut“ kết thúc thắng lợi vào 0h5` ngày 18-10-1977, vào ngày này cả CHLB Đức như vỡ òa trong vui sướng . Riêng Monika thì không . Ngoài nỗi đau mất chồng người phụ nữ 34 tuổi có 2 con này cảm thấy mình sẽ không thể mang nồi ý nghĩ ông Schuman là kẻ phản bội . Nhiều hành khách trên „Landshut „ hôm đó cũng tin lời Mahmud, cho rằng ông đã định bỏ mặc họ ở Aden.
Bà nhớ lại: xuất thân là một phi công lái máy bay chiến đấu, Schuman là một người có ý thức trách nhiệm rất cao . Chúng tôi thường nói chuyện với nhau về tất cả mọi đề tài và cách đó mấy tháng khi Schuman được làm cơ trưởng, thì cả về đề tài cướp máy bay. Ngay từ khi còn lái máy bay chiến đấu anh ấy đã hứa với tôi : anh không bao giờ mang tính mạng của anh để làm những việc không cần thiết.
Chính vì tình yêu với người chồng đã mất mà biến cố khủng khiếp này đã làm cho Monika trở thành một người đàn bà mạnh mẽ. Bắt đầu khởi nghiệp là phóng viên của một đài phát thanh , rồi quay phim truyền hình, dẫn chương trình, và cho đến khi về hưu mọi người đều thừa nhận Monika là một phóng viên truyền hình thành đạt . Bà thường xuyên làm việc từ 9 giờ sáng đến 12 giờ đêm .
Bà đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người , thậm chí cả Scheich Ahmed Mansur là tư lệnh không quân của Yemen hồi đó . Bà quyết phải tìm được cho ra sự thật - cho chính mình và cho các con trai- về những giây phút cuối cùng của chồng nhất là trong 20 phút ông vắng mặt ở Aden. Và cuối cùng bằng những nhân chứng sống bà đã chứng minh được trong 20 phút ở Aden Schuman đã van nài phía Yemen ngăn cản không cho „Landshut“ bay tiếp . Nhưng phía Yemen kiên quyết từ chối. Schuman quyết định trở lại máy bay mặc dù biết rằng điều đó rất nguy hiểm . Bà cũng chứng minh được chính Schuman là người đã bí mật truyền tin ra ngoài về quân số, vũ khí , trang bị của bọn khủng bố . Ngoài ra ông không những cứu mạng của người lái phụ Vietor mà còn cho ba hành khách bị nghi là người Do Thái nữa. Bà đã viết rất nhiều thư cho thủ tướng Helmut Schmidt và cơ quan phụ trách giải quyết khủng hoảng. Thậm chí bà đã chất vấn về trách nhiệm của chính phủ Yemen trong vụ việc .
Dường như những nhà làm phim đã thấu hiểu bà . Và bộ phim „Mogadishu“ lần đầu tiên đã được trình chiếu trên kênh truyền hình A R D vào lúc 20h15` ngày 30-11-2008. Bộ phim đã thu hút 7,4 triệu khán giả. Trong phim đã dựng lại một cách xác thực những giây phút cuối cùng của ông Schuman . Khán giả nhiều người đã rơi lệ khi trên nền đen của màn ảnh hiện lên dòng chữ : Tặng Jürgen Schuman .

Ảnh 1: Monika trong đám tang chồng ,1977.
Ảnh 2: Monika Schuman hiện nay (65 tuổi, đã về hưu)
Ảnh 3 : Sau khi tái hiện lại những hành động dũng cảm của cơ trưởng "Lanshut" các nhà làm phim đã giành sự kính trọng cho ông bằng dòng chữ hiện lên khi kết thúc bộ phim : Tặng Jürgen Schuman. (Ảnh trong phim "Mogadischu")
Ảnh 4 : Ông Wegener (hiện nay) đang thẩm định lại cảnh quay tấn công "Lanshut". Phía sau ông là các diễn viên đóng nhân viên GSG-9 trong phim "Mogadischu"
Ảnh 5: GSG-9 Tấn công "Landshut" từ phía sau.(Ảnh trong phim "Mogadischu")
Ảnh 6: Là cơ trưởng, ông Schuman thường xuyên bị Mamud khống chế đe dọa.(Ảnh trong phim " Mogadischu")













(Ảnh nguồn báo Bild)







PHẦN 4 : CHUYỆN HÔM NAY

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008

Thảm kịch ở Aden và câu chuyện Mogadischu

(Tiếp theo)


Phần 2 : CHIẾN DỊCH 7 PHÚT


Sau sự kiện các vận động viên Do Thái bị bắt cóc và giết chết ở làng Olympich München năm 1972, thượng úy Ulrich Wegener được giao nhiệm vụ thành lập một đội đặc nhiệm để giải quyết và đối phó với các cuộc khủng hoảng tương tự. Nó có tên gọi là GSG-9 và còn tồn tại đến ngày nay.
Trong 5 năm từ 1972- 1977- ông Wegener , năm nay đã 79 tuổi, nhớ lại - chúng tôi đã đi dọc ngang đất nước, luyện tập rất nhiều trên tất cả các phương tiện , kể cả máy bay nữa. Tuy nhiên nhiệm vụ thì không có gì đặc biệt. Chỉ là truy đuổi bọn cướp xe chở tiền , phá khóa đột nhập vào hang ổ bọn tội phạm, bảo vệ , canh gác.. . Ông cười và nói thêm : Chúng tôi trở thành những người mở khóa nhanh nhất Cộng hòa. Tuy nhiên nếu chỉ có vậy thì sẽ chẳng có ai biết đến GSG-9 nếu như không có vụ cướp máy bay vào ngày 13-10-1977 hay chính xác hơn là đến khi đích thân thủ tứơngs Helmut Schmidt gặp ông Wegener và nói : Wegener, chúng tôi cần ông.
Trước khi vụ bắt cóc "Landshut" xảy ra, ông Schmidt đã phải chịu áp lực rất lớn. Vụ bắt cóc ông Schleyer đã được 6 tuần. Ông lại kiên quyết không đàm phán với RAF. Việc điều tra dậm chân tại chỗ. Tiếp đến là vụ bắt cóc máy bay này. Điều kiện của RAF và nhóm bắt cóc máy bay hoàn toàn giống nhau : Phải thả ngay các tù nhân RAF! Nếu không thì ông Schleyer và toàn bộ hành khách trên "Landshut " sẽ chết !. RAF và những kẻ cướp máy bay đã dồn ông Schmidt đến chân tường và dẫn ông đến quyết định phải hạ lệnh giải cứu con tin trên "Landshut".
Quyết định là quyết định thế , nhưng thực hiện được thật không đơn giản chút nào. Thứ nhất ,không biết rồi " Landshut "sẽ đỗ ở đâu ? hơn nữa ở khu vực này nhiều quốc gia tỏ ra không muốn hợp tác với CHLB Đức trong cuộc khủng hoảng này. Thứ nữa nếu có hợp tác thì việc thuyết phục nước chủ nhà để đưa được đội đặc nhiệm vào hoàn toàn không là điều đơn giản . v v và v v...Rõ ràng là vụ việc đầu tiên phải giải quyết là ngoại giao. Ông Schmidt đã giao cho ông Hans-Jurgen Wischnewski chỉ huy chiến dịch này.
Ông Wischnewski không những là một chuyên gia rất am tường về Trung đông mà ở khu vực này và châu Phi ông còn có những mối quan hệ rất thân tình và đặc biệt với những nhân vật quan trọng. Hồi ấy ông là bí thư nhà nước phụ trách cơ quan giải quyết các khủng hoảng.
Nếu như nhìn vào bản đồ bay của "Landshut" (ở phần 1) tại Dubai ta sẽ đọc thấy giòng chữ :14-10 : 3h45´ sân bay Dubai không cho hạ cánh. 5h 51´ hạ cánh bắt buộc. Lưu lại 54 tiếng. 16-10: 12 h 19´ cất cánh không rõ đi đâu.
Chính tại đây ông Wischnewski và ông Wegener đã định ra tay. Tuy vậy nhà cầm quyền Dubai nhất quyết không đồng ý. Họ lấy lý do rằng mang vũ khí từ nước ngoài vào nước họ là trái với truyền thống và động chạm đến lòng tự hào dân tộc của họ . Sau nhiều thời gian thuyết phục không thành , hai ông đành ngậm ngùi nhìn phía Dubai nạp nhiên liệu và đuổi "Landshut" . Và không ai biết nó sẽ đi đâu?
Lại nói chuyện trên máy bay, sau khi đã bắn chết cơ trưởng Schuman , Mahmud bắt ông Vietor phải ngồi vào ghế lái chính. Lúc đó do hạ cánh khẩn cấp xuống đường băng phụ ở Aden , chiếc máy bay đã bị hỏng hệ thống tự động chữa cháy động cơ, thời tiết lại rất xấu. Cô Gabi nhớ lại : Thực sự Vietor đã cứu chúng tôi. Việc cùng với Schuman hạ cánh xuống đường băng phụ ở Aden và bay "mù" trong điều kiện thời tiết rất khủng khiếp đến Mogadischu đối với ngành hàng không hiện nay vẫn là 1 kỳ tích!.
Đúng vậy nơi dừng chân cuối cùng của "Landshut" là Mogadischu. Hồi ấy phương tiện truyền thông không như bây giờ. Tất cả mọi người trên "Landshut" đều không một ai biết rằng cách đó đúng 1 tuần Somalia đã chính thức yêu cầu tất cả các cố vấn và chuyên gia Liên Xô về nước và coi như đã cắt đứt quan hệ với Liên Xô.
Và chính lần này ông Wischnewski và ông Wegener đã gặp may. Người phiên dịch của ông Wischnewski nhớ lại : Khi đến Somalia ông ấy không muốn mất một chút thời gian nào nữa. Vừa xuống máy bay là ông ta đã tìm cách gặp tổng thống ngay. Tôi hỏi : Ông có muốn ăn 1 chút gì không? Ông ấy trả lời : Anh nghĩ rằng tôi còn có thể ăn được hay sao?
Cuối cùng thì tổng thống cũng đồng ý cho phép giải cứu tại Mogadischu . Nhưng phía Somalia nhất quyết đòi được tự mình làm.
Ông Wegener kể : Tôi cứ gặng hỏi : Các ông làm thế nào ? Một viên tướng đã chỉ huy quân lính diễn tập , họ mang cả dàn giáo và thang để trèo lên máy bay . Nhưng ngay cả khi người lính đã đứng vững trên giàn giáo vẫn không thể nào mở nổi cánh cửa. Tôi đã gọi người giỏi nhất của chúng tôi ra biểu diễn. Anh này trèo lên máy bay không cần thang và dùng tay trái để mở cửa. Tất cả bọn họ cứ thế há hết cả mồm. Tôi lại hứa với viên tướng rằng hai bên sẽ cùng phối hợp.
Nhưng phía Somalia không hề biết rằng ngay từ khi nhận nhiệm vụ, khi đọc hồ sơ của chiếc máy bay bị bắt cóc , bắt đầu đến khi đọc số máy thì ông Wegener đã rất sửng sốt nhận ra chính trên chiếc máy bay này đội đặc nhiệm đã được luyện tập.
Và cuối cùng ông Wegener đã được toại nguyện . Vấn đề bây giờ chỉ còn là phải câu giờ để đợi đội đặc nhiệm đến nơi và đợi trời tối.
Tại Mogadischu thông điệp của bọn cướp máy bay đã tỏ ra rất quyết liệt : phải mang các tù nhân RAF đến Mogadischu để trao trả và không được lần lữa nữa ! Đây là lần cuối cùng!.
Khi gần đến giờ hẹn, lúc đầu thì lấy lý do là để dọn dẹp xung quanh , tránh cháy nổ ra các vùng lân cận, và đến sát giờ hẹn thì phía mặt đất thông báo lên máy bay : CHLB Đức đã chấp nhận tất cả các yêu sách , các tù nhân R A F sẽ được mang đến Mogadischu , tuy nhiên phải có thời gian, vì thời gian bay ít nhất phải mất 8 tiếng.
Lúc nhận được tin này cả hành khách lẫn không tặc đều mừng rỡ . Mahmud cho gỡ tất cả thuốc nổ gắn trên máy bay.
Khoảng 12 h đêm, đột nhiên phía Somalia cho nổi một đống lửa rất to ở phía đầu máy bay để đánh lạc hướng . Đội đặc nhiệm tiến lại từ phía đuôi máy bay, và khi mở được cửa , đúng lúc bọn cướp máy bay chưa kịp định thần thì GSG-9 đã nổ súng . Mahmud bị hai phát đạn 9mm chết ở trong buồng lái , một nam và một nữ còn lại thì bị hàng băng đạn vào người cũng chết ngay. Duy chỉ còn một nữ không tặc có biệt danh là "con béo" mặc dù cũng dính rất nhiều đạn nhưng không chết. ( Ông Wegener baỏ : nếu như bằng đầu đạn bây giờ thì cô ta cũng không thể nào sống được).
Cuộc giải cứu kết thúc thắng lợi vào 0h05` ngày 18-10-1977. Toàn bộ chiến dịch diễn ra trong đúng 7 phút.
Ngay sau khi kết thúc chiến dịch, ông Wischnewski baó cáo với ông Helmut Schmidt :
- Nhiệm vụ đã hoàn tất , tất cả các con tin đều nguyên vẹn.
- Tôi muốn nói chuyện với ông Wegener.
Khi Wagener cầm ống nghe thì ông Schmidt đã dàn dụa nước mắt :
- Đại úy Wegener, tôi xin cảm ơn ông .
- Thưa thủ tướng , tôi cũng xin cảm ơn ngài , nhưng tôi là thượng úy chứ không phải đại úy !
- Wegener, đại úy là hoàn toàn chính xác . Tôi đã đề nghị rồi.
Đây đúng là cách đối thoại của những người đàn ông rất kiệm lời.
Vào tối ngày 18 rạng ngày 19-10 những kẻ bắt cóc ở Đức đã giết chết ông Schleyer, ngày 19-10 người ta đã tìm thấy xác của ông trong một cốp xe hơi ở Mulhouse .
Rạng ngày 19-10 ba tù nhân RAF : Andread Baader, Gudrun Ensslin, Jan-Carl Raspe đã tự sát trong nhà tù Stuttgart-Stammheim . Đây là những cái tên được nhóm bắt cóc "Landshut" nêu đích danh đòi trao trả.
Những sự việc này đã làm cho CHLB Đức chìm vào một cuộc khủng hoảng . Có nhiều vấn đề cho đến bây giờ người ta vẫn còn day dứt và tranh luận.


Ảnh 1 : Không tặc "con béo" duy nhất sống sót. Bức ảnh chụp khi cáng vừa từ trong máy bay ra . Cô ta giơ cao bàn tay có các ngón tay làm chữ V và miệng hô to : Kill me !
Ảnh 2: Ông Wegener (ngoài cùng trái) và GSG-9. Ảnh chụp 1979. Lúc này GSG-9 đã nổi tiếng.
(Ảnh nguồn báo Bild)


PHẦN 3 :HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI VỢ GÓA VÀ BỘ PHIM TRI ÂN

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2008

Thảm kịch ở Aden và câu chuyện Mogadischu

KỲ 1: CẢ NƯỚC KINH HOÀNG

Ngày 13/10/1977 là một ngày thu mây mù. Lẽ ra cơ trưởng Schuman và lái phụ Vietor đã không phải bay. Nhưng ngày này rất nhiều phi công bỏ bay, nên vào phút cuối hai ông nhận được quyết định phải bay thế. Thực ra thì chỉ bay đến Mallorca (Tây Ban Nha) rồi quay về . „Đến tối anh sẽ về“, Schuman nói với vợ sau khi ăn sáng xong . Cậu con trai lớn như thường lệ, đội mũ lưỡi trai của bố chạy trước ra xe ôtô . Schuman lấy mũ ra khỏi đầu cậu con trai , cúi xuống hôn con , rồi vội phóng xe đến sân bay. Ông không thể ngờ rằng đấy là cái hôn cuối cùng của đời ông.
Cũng vào sáng hôm ấy Rüdeger chở cô chiêu đãi viên Gabi Dillman đến sân bay. Anh đã mấy lần ngỏ ý cầu hôn, nhưng Gabi còn „cành cao“ chưa nhận lời . Gabi mới 23 tuổi . Cô là người trẻ nhất trong đội bay trên chiếc " Landshut " (số LH -181) của Lufthansa gồm 5 người do cơ trưởng Schuman chỉ huy. Nhưng cả Rüdeger lẫn Gabi đều không thể biết rằng chỉ 5 ngày sau cô sẽ thành một người khác hẳn . Và ngay sau giây phút đầu tiên gặp lại, Gabi sẽ nhận lời cầu hôn .
Cách đấy vào khoảng 6 tuần, tổ chức „ Lữ đoàn đỏ“ (RAF) đã bắt cóc ông chủ tịch hiệp hội các doanh nghiệp Schleyer ở Karlsruher để làm con tin . Điều kiện của RAF : thả ngay tất cả các tù nhân RAF đang bị giam giữ ! Thủ tướng CHLB Đức lúc đó là ông Helmut Schmidt tỏ thái độ rất cứng rắn. Theo ông , nếu đàm phán với RAF là „đập tan nền dân chủ“. Cảnh sát đã mở nhiều cuộc truy lùng , nhưng vô vọng.
Trên đường quay trở về từ Mallorca vào lúc 13h50 chiếc "Landshut" đã bị 4 người Palestin gồm 2 nam , 2 nữ mà cầm đầu là một người tự xưng là“ chỉ huy Mahmud „ khống chế và buộc ông Schuman phải bay đến Rom . Và đến lúc đó thì cả nước Đức bàng hoàng khi biết chiếc "Landshut" gồm 86 hành khách và tổ lái 5 người đã bị bắt cóc . Tiếp theo hơn 4 ngày sau đó (chính xác là 105 tiếng đồng hồ ) cả Tây Đức thực sự sống trong cơn sốt . Hành trình khủng khiếp này có thể xem trên bản đồ ở bên, trong đó những chỗ đánh dấu (X) là những sân bay không cho phép chiếc "Landshut" hạ cánh và ở từng địa điểm được phép đáp xuống đều có ghi rõ giờ hạ, cất cánh (theo giờ trung Âu).
Việc đầu tiên mà nhóm khủng bố này làm là tịch thu tất cả hộ chiếu của hành khách. Mahmud tuyên bố sẽ giết tất cả những người Do Thái có trên máy bay . Không khí lúc này cực kỳ hoảng loạn . Thực ra trong đám hành khách hôm đó chỉ có duy nhất 1 người Do Thái . Đó là một người đàn bà 60 tuổi . Trước đây trong chiến tranh thế giới thứ 2 bà đã thoát chết trong trại tập trung . Khi Mahmud phát hiện ra hộ chiếu Israel của bà thì cô Gabi đã lên tiếng giải thích với Mahmud rằng bà là một tín đồ thường xuyên hành hương và vì thế có hộ chiếu Israel. Người đàn bà này vô cùng hoảng sợ , cô Gabi đã ngồi bên cạnh bà , thì thầm an ủi và nhắc nhở bà các động tác để đừng lộ mình là người Do Thái.
Nữ hành khách người Đức Birgitt Röhll ngồi ở hàng ghế thứ 11 cùng với cậu con trai 10 tuổi. Bà đến Mallorca thăm bạn . Trong hộ chiếu ghi tên bà thời con gái là Grünnewal . Chẳng hiểu tại sao Mahmud lại cho rằng đấy là 1 cái tên Do Thái . Hắn giật chiếc bút máy hiệu „Montblanc“ trên người bà , chỉ về phía đầu nắp bút có hình ngôi sao nhiều cánh và gào lên: Đây là cái gì ? (bằng tiếng Anh). Bigritt sợ líu lưỡi chỉ lắp bắp : Đây là logo của hãng. Mahmud tức giận nhổ vào mặt bà. Hắn lại gào lên với cậu con trai: Chúng mày có phải là người Do Thái không ? Nhưng thật khốn khổ vì cậu bé này không biết tiếng Anh. Hắn nhổ tiếp nước bọt vào mặt cậu bé . Và quay sang Bigritt : Sáng mai đúng 8 giờ tao sẽ bắn chết mày ! Bà Bigritt lúc đó chỉ còn một mong muốn duy nhất là ngày mai hắn không bắn chết mình trước mặt con trai. Nhưng sau đó ông Schuman đã thuyết phục Mahmud rất lâu , „khuyên „ hắn không nên làm cho tinh thần của hành khách hoảng loạn thêm nữa. „Please, don`t shoot her „ . Cuối cùng thì hắn cũng nghe ra và tuyên bố bà Birgitt được sống. Bà đã thoát chết trong gang tấc.
Trên chiếc đồng hồ Junghans của ông Vietor cũng có hình ngôi sao tương tự . Mahmud bắt ông phải đập nát trước mắt hắn. Nhưng Vietor dẫm đạp thế nào cũng không hỏng . Chỉ đến khi Mahmud lấy chiếc búa ở buồng lái thì hắn mới đập nát được chiếc đồng hồ . Cái đống sắt vụn đó hắn vứt trả lại cho ông. Vietor giữ cái đồng hò đó cho đến bây giờ. Và ông luôn mang theo nó mỗi khi bay coi như bùa hộ mệnh. Một vấn đề cho Mahmud là trong hộ chiếu Đức không ghi tôn giáo. Hắn hất hàm hỏi ông Vietor : Theo đạo gì? . Ông Vierto nhớ lại : Lúc đó tôi trả lời :Evangelich (tin lành ) nhưng có lẽ do quá hoảng sợ nên ông không thể phát âm đúng từ này. May thay lúc đó Schuman đã trả lời ngay : Ông ta là Protestant ! (tân giáo). Nhưng đây mới chỉ là lần thoát chết thứ nhất của Vietor.
Nhìn vào bản đồ bên ta sẽ thấy vào lúc 1h52 ´ ngày hôm sau chiếc" Landshut "hạ cánh xuống Bahren (một quốc gia vùng Vịnh) . Nên nhớ rằng lúc đó hầu hết trên thế giới đều đã biết sự kiện này và biết rõ yêu cầu của nhóm không tặc, vì thế mới có chuyện nhiều sân bay không cho phép "Landshut" hạ cánh. Tất nhiên nhóm không tặc đã yêu cầu không một ai được đến gần máy bay . Tuy nhiên tại Bahren , nhóm bắt cóc máy bay đã phát hiện ra quân lính lố nhố bao quanh sân bay . Mahmud gầm lên và chĩa súng vào đầu Vietor : nếu 4 phút nữa quân lính không rút thì tao sẽ bắn chết mày ! Một phút , hai ,ba rồi bước sang phút thứ tư . Viertor hồi hộp chờ phát đạn , nhưng may sao còn đúng 30 giây nữa thì đột nhiên có một chiếc ôtô chạy đến gom hết tất cả số lính mang đi.
Vào thời kỳ đó nhiều quốc gia ở khu vực này lo ngại dây dưa vào các vụ xung đột, cho nên hầu hết đi đến đâu chiếc "Lahndshut" cũng bị xua đuổi.
Từ Bahren chiếc máy bay lại bị đuổi đi và ngay cả khi cất cánh thì phi hành đoàn cũng chưa biết bay đi đâu. Cả đất nước nín thở theo dõi.
Khi "Landshut" bay đến Aden (Yemen) thì nhà cầm quyền nước này đã cho xe bọc thép và rất nhiều ôtô đỗ trên đường băng để ngăn cản không cho nó xuống. Mặc dù ông Schuman đã hết sức năn nỉ, nhưng sân bay dứt khoát không thay đổi ý kiến. Đến khi chỉ còn 15 phút nhiên liệu, ông Schuman đành liều mạng đáp xuống đường băng phụ dành cho việc đỗ khẩn cấp. Đường băng này vừa ngắn lại hết sức tồi. Có lẽ chiếc máy bay dừng lại được an toàn là một điều kỳ lạ . Bởi vì lúc ấy cát bụi mù mịt , rất nhiều cát lọt vào phía động cơ.
Tuy nhiên phía Yemen vẫn giữ nguyên quan điểm của mình, kiên quyết yêu cầu "Landshut" phải rời khỏi đất nước họ. Phía Yêmen cho người ra kiểm tra tình trạng kỹ thuật bên ngoài của máy bay và tuyên bố tình trạng máy bay vẫn đảm bảo và buộc phải cất cánh sau khi nhận được nhiên liệu. Ông Schuman lấy cớ với cương vị là cơ trưởng ông phải trực tiếp ra ngoài để kiểm tra lại một lần nữa . Trong thời gian này Mahmud phát hiện ông đã rời khỏi máy bay khoảng 20 phút. Tức giận hắn gọi loa yêu cầu phía Yemen phải trả lại Shuman nếu không hắn sẽ cho nổ tung máy bay và giết hết tất cả hành khách. Ông schuman quay lại , Mahmut dùng súng đánh vào mặt ông. Sau những tiếng quát tháo là một tiếng súng nổ, xác ông Schuman đổ vật trên lối đi ngay phía trước đường vào toalet . Sau khi giết Schuman xong, Mahmud nói với các hành khách: Hắn đã muốn bỏ quý vị, tôi đã giết hắn. Đồ đào tẩu!.
Cho đến bây giờ, chính xác là cho đến trước 20h15´ ngày 30-11-2008 nhiều người, kể cả các hành khách trên chiếc "Landshut" hôm đó đều nghĩ rằng Schuman đã định bỏ họ . Nhưng không ai có thể biết trong 20 phút ấy ông Schuman đã làm gì?
Chẳng lẽ CHLB Đức cũng như ông Schuman đã bỏ rơi 86 hành khách?

Ảnh 1 : Bản đồ bay của "Landshut" khi bị bắt cóc.
Ảnh 2: Ông Schuman.
Ảnh 3 :Bức ảnh cuối cùng của ông Schuman chụp ở Dubai, nhìn kỹ sẽ thấy có một khẩu súng đang chĩa vào đầu ông.
Ảnh 4 : Ông Vietor 1977.

(Ảnh nguồn báo Bild)

KỲ 2 : CHIẾN DỊCH 7 PHÚT

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2008

Tản mạn về một anh chàng bình quân

Hôm nay chợt thấy giật mình,té ra cho đến nay nơi mình sống lâu nhất lại là Leipzig.Hà Nội nơi mình cảm thấy gắn bó nhất thì thật ra mình cũng chỉ sống ở đó có hai lần với thời gian daì liên tục tổng cộng có 13 năm.Thế mà ở Leipzig đã 18 năm rồi .Tuy nhiên chưa khi nào mình cảm thấy hòa nhập được.Và ngày càng khao khát được trở về quê hương.
Nơi mình sống như thế nào nhỉ?Bây giờ là mùa thu,nhiệt độ ngoài trời khoảng 11-12 độ.Thành phố Leipzig có khoảng nửa triệu người,tỷ lệ thất nghiệp khoảng 20%.Có thể nói đây là quê hương của Bach.Ở trung tâm thành phố có một quán rượu là bối cảnh của một tình tiết trong truyện thơ nổi tiếng thế giới "Con quỷ".Leipzig thuộc bang Sachsen.Ta hãy quan sát một người Sachsen"bình quân".Đó là một anh chàng 44,8 tuổi,nặng 81,5 kg.Anh ta có thu nhập một tháng là 1118€(netto).Người đàn ông này chi 274€ cho việc ở,mua wurst hết 22,1€.Một tháng nốc hết13,69€ tiền bia ,rượu.Một năm người này "sản xuất"ra 79,5 kg rác bao bì,tiêu thụ hết 32266 lit nước sạch.Cứ 5 năm anh ta đi viện một lần.Tính đến thời điểm này dân số của bang giảm 1,4 triệu người(so với năm 1950).Chỉ riêng từ năm 1990 đến nay toàn bang đã giảm đi nửa triệu người.Nhưng đồng thời tai nạn giao thông và tội phạm hình sự cũng giảm theo.Trong khi đó sinh viên và khách du lịch lại tăng.
Nếu so với anh chàng "bình quân" này thì theo mình người VN ở đây già hơn,gầy hơn ,ăn ít hơn nhưng lại "khỏe" hơn.

Xem ảnh đội thi văn và thi toán


Trong khi chua tim ra cach viet co dau thi ta tam thoi viet khong co dau vay ,nhu the de dang cho moi nguoi hon.Vua doc vua doan cung la mot bien phap chong lao hoa.Vua xem anh cua Tuong Lai gui xong (anh chup chung 2 doi thi Van va toan),anh nay minh chua he co.Mung qua vi thay trong anh minh la nguoi dep trai nhat.Cac cao thu tin hoc khi nao tim duoc cach viet co dau thi pho bien cho anh em.Hy vong luc ay se ngay cang co nhieu tin hay.Xin chao tat ca.

(Hữu Thành ghép thêm ảnh vào, 4/11/2006)

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2008

Đọc báo hộ bạn


Nhân dịp APEC 14 tại Hà nội mình xin "đọc hộ" nguyên văn một bài báo Đức đang trên tờ"Dresdner Morgen Post"ngày thứ bảy 18/11/2006
Chụp ảnh gia đình với Bác Hồ
Hà nội-Sau hơn 30 năm kết thúc cuộc chiến tranh Việt nam,tổng thống hợp chủng quốc Hoa Kỳ Bush,trong khuôn khổ chuyến công du châu Á,đã đến Hà Nội.Và tại đây tổng thống cùng phu nhân,bà Laura,cùng chủ tịch nước CHXHCN Việt nam Nguyễn Minh Triết và phu nhân,bà Trần Thị Kim Chi,trước pho tượng bán thân của Hồ Chí Minh huyền thoại đã chụp một tấm ảnh chung.Hồ Chí Minh,dưới cái tên gọi đầy yêu mến "Bác Hồ",chính là người lãnh đạo Bắc Việt nam trước đây ,bằng "chiến tranh nhân dân",đã tặng người Mỹ cơn ác mộng Viêt nam.Một bài học từ chiến tranh Việt nam soi rọi vào chiến tranh Irắc,theo Bush, là phải có kiên nhẫn:"Chúng ta sẽ đi đến đích nếu chúng ta không dễ dàng bỏ cuộc". Ảnh AP.

Kỷ niệm ngày thành lập quân đội ở Leipzig





Ngoài những cái" ẩn chứa",quân đội đã để lại trong tôi hai cái "hiện hữu "mà tôi không quên được và cũng không bao giờ muốn quên. Đấy là 2m phin "tá" và những chuyện tiếu lâm. Những chuyện tiếu lâm được kể ra những lúc đợi kẻng cơm ở đơn vị, nơi mà rất hay bị đói. "Tục" có "thanh" có". Những chuyện tục thì một người "can trường "như tôi nghĩ đến còn phải kinh hoàng. Nhưng tất cả những chuyện đó đều làm tôi phải bật cười ngay cả những khi cay đắng nhất. Khi làm thủ tục ra quân, ông cán bộ chính sách nhìn cái balô lép kẹp của tôi và nhớ ra hồi trước đã có lần tôi chữa tivi cho ông ấy. Sau một hồi "vận dụng", ông ấy quyết định nhượng cho tôi 2m phin "tá" mặc dù khi ấy tôi chỉ mới đại úy. Bán 2m vải này , tôi đã có được một bữa liên hoan chia tay có thịt, có cá, có rượu (tất nhiên là phải nấu lấy).
Hôm nay ,bọn tôi có một bữa liên hoan ở Leipzig để nhớ đến ngày thành lập quân đội . Chẳng ai phải bán cái gì cả. Cũng có đầy đủ tất cả mọi thứ. Như thế là tôi đã ra quân được 24 năm. Trong từng ấy năm tôi hiểu được rằng các chiến sỹ của chúng ta và chúng ta lúc nào cũng có quyền tự hào là đã được phục vụ trong QĐNDVN. Đâý là một tổ chức tốt nhất thế giới.


Ảnh:-Bánh của Chí Hòa vừa đẹp lại vừa ngon.
-Bức tranh thứ nhất từ phải sang là của thầy Lực.
-Từ trái sang:con trai Võ, Chí Hòa, Quang Xèng. Tôi nói với chúng nó:- Nếu hồi trước mà tao để đầu tóc như chúng mày thì không thể trở thành đại úy.
-Đại gia đình các quân nhân.

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

Leipzig đón Hùng Xiểm

Đang đi trên đường thì Quang Xèng thông báo có Hùng Xiểm đến Leipzig . Vội vàng thu xếp công việc để đi đón Hùng Xiểm ngay. Thú thật cũng không biết Hùng Xiểm là ai , chỉ cần biết trường Trỗi là đủ . Anh em gặp nhau mừng quá . Gọi được cả Võ Hùng và Thắng (K9) . Hùng là cán bộ nhà nước , công việc nhiều chỉ gặp anh em được 2 tiếng đồng hồ . Quang xèng mừng quá gọi rượu vang bị nhầm. Chai đầu thì chát, chai sau thì ngọt . Uống xong thấy man man cho đến bây giờ . Đi nhậu nên không ai mang máy ảnh cả . Quý nhẽo đưa điện thoại của mình cho chủ quán chụp hộ . Bây giờ nhìn lại thì thấy mỗi mặt mình. Vô duyên quá ! Hùng Xiểm có chụp bằng máy ảnh , khi về thì cố gắng post lên cho vui Hùng nhé .
Anh em ở đây đã nhờ Hùng Xiểm chuyển lời chào tới tất cả anh em ở nhà.
Nghe Hùng Xiểm kể công việc làm báo cũng bận bịu và bản thân Hùng Xiểm cũng phải học tập, phấn đấu nhiều . Quý nhẽo , Quang Xèng , Võ Hùng nhìn nhau mặt xanh lè và cảm thấy mình rất may mắn vì bây giở để đọc , viết được blog giao lưu với anh em cũng không cần phải học quá nhiều.

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2008

Ngôi sao thành Ê ghe





Hồi nhỏ chắc nhiều người phải mê mẩn khi được đọc truyện „Ngôi sao thành Ê ghe „. Bây giờ để vào được thành Êghe người ta không phải quá vất vả như quân Thổ trong câu chuyện và cũng chả phải mất đi chiếc nhẫn có hình trăng khuyết mà chỉ mất có mỗi 5 Euro.
Cách phía đông Êghe khoảng hơn 100 km là vùng sản xuất rượu vang nổi tiếng Tokaji. Ở đấy có 200 hầm rượu vang và 5500 ha trồng nho. Hầm rượu vang lớn nhất ở đấy có chiều dài 7,5km. Trước đây Putin, Busch và bây giờ là Vân Nga đều đến hầm rượu vang này để thưởng thức rượu vang được người ta rót ra rất điệu nghệ từ một cái phễu thủy tinh dài gần 1 sải tay. Tuy nhiên có một điểm khác nhau „ chết người“ giữa những vị này , ấy là hai vị đầu đến đây bằng tiền thuế của dân còn vị thứ ba thì…
Vào dịp Quốc khánh Hungary (23/10) nên ở đài kỷ niệm sự kiện 1956 ở Êghe có rất nhiều hoa . Theo một cô gái 32 tuổi rất xinh đẹp người Hung , nói tiếng Đức thao thao như người Hà Tây nói tiếng Hà Nội , thì có 3000 người Hung bị thiệt mạng trong sự kiện này. Đài kỷ niệm gồm một tảng đá có khắc số 1956 và một lá cờ bằng kim loại khoét rỗng giữa. Cán cờ bị gãy, phải nối với nhau bằng dây...
Cái chỗ bị khoét rỗng lấy đi mất ở trên lá cờ ấy , liệu có phải là niềm tin?

Đi đâu cũng chép cũng ghi , Không biết thì hỏi tự ty làm gì ?





Buda được nối với Pest bằng vô số những cái cầu bắc qua sông Đanuyp, các cầu này tất nhiên có hình dạng rất khác nhau . Có những chiếc cầu chỉ để cho tầu điện đi qua . Chiếc cầu cổ nhất là một chiếc cầu treo . Mỗi đầu cầu có hai con sư tử rất to. Khi làm xong chiếc cầu này , tương truyền rằng , ông kiến trúc sư rất tự hào tuyên bố : „Đây là một công trình không có tỳ vết !“. Nhưng có một cậu thợ học việc nhóc con tỷ mẩn thế nào lại phát hiện ra các con sư tử đều không có lưỡi !. Quá xấu hổ ông KTS đã trẫm mình xuống dòng Đanuyp .
Kể ra bố này tự ái cũng hơi cao . Nhưng nếu không có lòng tự ái thì lấy đâu ra những cây cầu đẹp đến thế? Nghĩa là những công trình xấu xí được làm ra nhiều khi là do thiếu những cái rất xa lạ với tiền .
Khi đi thuyền trên sông Đanuyp , nhìn về phía ngọn đồi cao phía Buda , người ta thấy trên đỉnh có tượng một người đàn bà đang dơ hai tay đỡ một cành lá . Cách đây mấy chục năm khi được làm ra để kỷ niệm chiến thắng của Hồng quân , người đàn bà này hai tay nâng một khẩu súng tiểu liên Kalasnhicop .
Không biết thời điểm thay khẩu súng bằng cành lá có trùng với thời điểm Hunggari được kết nạp vào NATO không nhỉ ?.
Và không biết bây giờ khi ngắm bức tượng này thì có ai nghĩ , hồi trước Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt bọn phát xít chỉ bằng những cành lá?.

Hoan hô nước bạn Hung- Ga , Ry thì giống cảnh nước ta vô cùng






Chẳng hiểu tại sao một nước ở châu Âu mà lại „ giống cảnh nước ta vô cùng“?. Tuy nhiên khi nhìn thấy đất nước Hung tươi đẹp thì cảm xúc lại được thăng hoa chẳng khác gì như khi đứng trước giang sơn gấm vóc ở quê nhà . Cái chỗ gặp nhau của cảm xúc ấy được gọi là „giống“ chăng?
Hồi trước người ta viết sâu xa trầm tích quá để cho lớp người sau ngu muội cứ phải đoán mò ! Rõ ràng là chữ được viết ra từ „Bút Tre“ mà cứ ngỡ nó được tuôn ra từ Bút Thần. Hãy nhìn những ngôi nhà , dòng sông, những cây cầu , những con đường, các kỵ sỹ quất roi vun vút tung mình trên vó ngựa…

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008

Ngôi sao vàng ở nghĩa trang Văn Giáp



Hồi đầu năm nay,được về phép VN.Thời gian cũng chẳng nhiều nhặn gì.Tôi cố gắng dành ra 5 ngày vào TP Hồ Chí Minh và từ đây tôi sẽ bay đi luôn.Từ HN tôi đã báo cho K.Quốc ,D.Minh và P.Nam kế hoạch như vậy.
Hai ngày sau khi đến SG,D.Minh ,K.Quốc đên đón tôi đi thăm mộ anh Trỗi.Có cháu trai của D.Minh đang du học ở Singapor về nghỉ hè cũng đi cùng.Sau giải phóng,tôi có 3 năm công tac tại TSN.Lúc đó tôi có một chiêc xe Suduki. Chiếc xe này có lợi thế là chạy được xăng máy bay P40 .Một thanh niên chưa vợ lại chạy xe không mất tiền xăng thì thử hỏi còn ngóc ngách nào ở thành phố này mà tôi không biết?Thế nhưng một phần vì thời gian đã quá lâu nhưng chủ yếu là do TP đã thay đổi quá nhiều ,nên ngồi trên xe tôi không thể phân biệt được phương hướng.Chỉ biết để vào được nghĩa trang Văn Giáp phải rẽ vào một con đường rất nhỏ.Vào đến nghĩa trang ,xuống xe đi vài bước KQ va DM đã chỉ cho tôi ngôi sao vàng trên mộ anh.Nhìn thấy ngôi sao thì ta có thể dễ dàng tìm thấy mộ anh.Mộ anh vô cung bình dị ,lẫn vào với những ngôi mộ xung quanh.Nó giản dị đến nao lòng.Ngôi sao vàng làm bằng xi măng trông cũng rất mộc mạc, nhưng đặc biệt trông màu vàng của nó rất rực rỡ dưới nắng chiều.Tôi đứng yên lặng nhìn mãi vao ngôi sao trên mộ anh. Ước gì được nhìn thấy anh! Ước gì được nói chuyện với anh! Anh đã cho hết và bây giờ anh nằm đây yên lặng.Thắp hương cho anh xong,chúng tôi sang thắp hương cho song thân chị Quyên.
Trên dường về chúng tôi ghé vào nhà anh Dũng ,chị Quyên. Ngôi nhà của anh chị rất đẹp và sạch sẽ gọn gàng. Chị Quyên ,anh Dũng đều không có nhà nhưng rất may chị giúp việc nhận ra người nhà nên mở cửa cho chúng tôi vào. Tất cả chúng tôi lên bàn thờ thắp hương cho anh .
Trong gian thờ đập vào mắt tôi là một bức chân dung của anh. K.Quốc bảo đây là do một họa sỹ Cu Ba vẽ. Người họa sỹ này chắc khi vẽ như luôn hình dung anh đang đứng trước mặt nên trông bức tranh sinh động lạ thường.
Không đợi được chị Quyên ,chúng tôi đành phải ra về. Vào đến thành phố lại tắc đường. Tôi chào các bạn và xuống xe, nhảy xe ôm về nhà. Bệnh viện ,trường học, sàn giao dịch chứng khoán, đường xá…chỗ nào cũng tháy quá tải. Thành phố đang lớn lên từng ngày, tất cả các áo đều quá chật. Tôi chưa từng biết đến thành phố nào lại nhiều sức sống như thành phố này. Mặc dù vẫn thuộc vào các nước nghèo nhưng người dân VN luôn trong TOP những cư dân cảm thấy hạnh phúc nhất. Có lẽ dân nước ta là người cảm nhận được sâu sắc nhất niềm vui sướng được tự mình giải quyết các vấn đề của chính mình.
Dỗ anh năm nay, tôi đã nhìn lên trời để hy vọng được nhìn thấy anh. Trong tâm tưởng của tôi ,hình ảnh anh luôn rực rỡ dưới ánh sao vàng.

Cuối tuần nói chuyện trên trời

Cuối cùng thì EU cũng bàn giao được chiếc A380 đầu tiên cho Singapor Airlines(AS).Theo đơn đặt hàng của AS thì chiếc A380 này có 471 chỗ ngồi và mỗi hành khách có một TV riêng. Chỉ thương các cô cậu 9X nhà ta từ nay nếu có dịp đi trên chiếc máy bay này thì cũng không có dịp chọn kênh VT3 để xem „Nhật ký Vàng Anh „nữa!.
Viêc sản xuất Airbus cũng lắm chụyện lình sình. Công nhân hàng không Đức phải đình côngđể giữ 10.000 chỗ làm việc, nếu không những chỗ làm việc này sẽ chuyển qua Pháp , nơi mà theo tính toán, giá thành sẽ rẻ hơn. Trong quá trình sản xuất người ta lại phát hiện ra trục trặc trong hệ thống kỹ thuật. Các vị trong hội đồng quản trị biết rõ chuyện này nhưng ỉm đi và tuồn hết cổ phiếu của mình ra bán . Một năm sau cổ phiếu của Airbus sụt và vị ít nhất cũng
kiếm được hơn 400.000 euro từ sự khôn lỏi này. Tuy vậy việc này chẳng thể qua mặt nổi các nhà điều tra. Chắc chắn Ủy ban kiểm tra EU sẽ sớm làm sáng tỏ vụ việc mặc dù có vị đã chuyển sang công tác khác. Trắng đen còn phải đợi nhưng giới luật sư lại vớ được một mớ tiền. Ở một siêu dự án như thế này khi mà quyền lợi giữa các cá nhân ,các quốc gia và các châu lục không phải lúc nào cũng đồng nhất thì những chuyện lình sình như thế chắc cũng còn dài dài. Những kẻ say sưa khiếu kiện như Thích Quảng Độ nếu được tham gia sán xuất Ảirbus chắc là có nhiều đất để dụng võ.
Như vậy là chiếc A380 đầu tiên đã được bàn giao chậm 18 tháng. Sang năm theo kế hoạch thì sẽ bàn giao 13 chiếc nữa. Danh sách đặt hàng đã lên 189 chiếc. Tuy vậy ,theo tính toán phải đến chiếc thứ 421 mới có lãi. Đằng sau siêu dự án này người ta thấy khát vọng muốn cân bằng với đất nước siêu cường bên kia đại dương của các nhà tài phiệt, các nhà chính trị ,người dân thường và của cả một châu lục. Ở đâu không có những khát vọng như thế thì ở đó người ta hay nói đến những chuyện „dưới đât“ như kiểu „Nhật ký Vàng Anh“.

Châu về Hợp Phố

Trưa ngày 6-3-1952 có một đôi vợ chồng , người vợ đang có mang, đã bỏ kháng chiến „dinh tê“ về HN. Đôi vợ chồng ấy về lại ngôi nhà của bên ngoại ở số 11 Phan Huy Chú. Đêm hôm ấy người mẹ trở dạ và được đưa đến nhà hộ sinh gần đó ở phố Hàn Thuyên .Và Hồng Hải được sinh ra ở đấy vào tối ngày 6-3-1952.
Chắc những ai đã từng ở khu vực đó đều biết cái nhà hộ sinh ấy, nó ở gần ngã năm Lò Đúc và nếu nhìn về phía ngã năm thì nó ở bên phía trái. Chố ấy nền nhà cao hơn mặt đường, nên ngay cửa vào có một bậc tam cấp. Nay không biết chỗ ấy đã thành cái gì?
Nhà số 9 Phan Huy Chú là lãnh sự Anh, vì thế nhà nước ta sau khi hòa bình lập lại đã vận động bà ngoại của Hồng Hải cho nhà nước thuê để làm chỗ ở cho viên phó lãnh sự .
Không đợi phải nói đến lần thứ 2 bà đã vui vẻ dọn đi. Sau năm 1975 thì bà cháu H.Hải mới quay lại ngôi nhà này. Trong ngôi nhà này tôi gặp H.Hải khi nó mới có con gái được vài tháng. Từ ấy tôi cũng không gặp lại H.Hải và cháu gái nữa. Tôi chỉ muốn bây giờ được gặp lại con gái của H.Hải để kể cho cháu nghe cháu đã được cụ chăm sóc kỹ lưỡng và âu yếm đến như thế nào.
Sau này lãnh sự Anh chuyển sang phố Lý Thường Kiệt , nhà Thanh Minh chuyển về đấy. Trước khi lên trường Trỗi thì tôi và Vân Hùng thường xuyên“ công tác“ ở nhà Thanh Minh. Bức tường ngăn cách nhà Thanh Minh với nhà số 7 (trước đây là khu tập thể bộ tài chính nay là một nhà nghỉ rất to) là chỗ bọn tôi làm bia để chỉnh súng hơi. Hồi đấy còn trẻ nên mắt mũi bọn tôi rất tinh tường: chỉnh súng toàn bằng cách bắn 2 viên đạn chồng lên nhau thành hình số 8. Thanh Minh hồi ấy đã rất tinh ranh, chuyên môn bóp cò bằng ngón tay giữa. Bây giờ nghĩ lại nó làm công tác chính trị cũng phải.
Chếch nhà tôi một chút ,nhà số 13 Trần Hưng Đạo, là nhà bà cô ruột của H.Hải. Theo tôi đây là một trong những ngôi biệt thự đẹp nhất phố Trân Hưng Đạo. Đi đâu tôi cũng để ý nhưng chưa thấy ở đâu có cây thân dừa ,lá chuối như ở ngôi biệt thự ấy. Hai cây ấy trồng rất đối xứng phía trước ngôi biệt thự. Ở trên tầng hai ,các phòng sàn toàn lát bằng gỗ lim đen sì. Thằng H.Hải thỉnh thoảng nổi máu chăm nên lại xung phong đánh xi sàn nhà. Có lần nó bắt tôi đứng tán phét , nhìn nó đánh xi sàn nhà cho đỡ buồn.
Chỉ đến khi vào trường Trỗi tôi mới biết đấy là nhà cô H.Hải. Cho nên trước đấy vào một đêm khoảng năm 1964 có 2 chậu hoa rất to khoảng 1 vòng tay ôm nằm trên trụ cửa ra vào đã rơi xuống đất vỡ tan tành. H.Hải còn thắc mắc đến bây giờ. Tội phạm cũng chỉ đủ dũng cảm thú nhận với H.Hải qua điện thoại và với lời bảo đảm của H.Hải không tiết lộ câu chuyện này với 2 cô tiểu thư của nhà ấy.
Phố Phan Huy Chú rất ngắn và hơi tối. Có một lần qua điện thoại H.Hải thảng thốt nói với tôi:-phố Phan Huy Chú ban đêm đã biến thành phố…Tôi ngắt lời nó:-Tao biết rồi, đừng nói nữa thêm đau lòng!.
Gần đây tôi nói với H.Hải:- Các câu chuyện của mày thấm đẫm Hà nội. Nhưng mày bây giờ là „hà lội“. Đời người như dòng sông. Khi trẻ thì ta bơi, khi già thì ta lội. Cốt sao cố gắng giữ gìn để nước khỏi vào mũi là được.
Đến tháng 3, nếu không có gì thay đổi, trên đường về VN, H.Hải sẽ ghé qua Đức. Thế là Châu lại về Hợp Phố. Đến lúc ấy tôi sẽ có dịp được nâng cốc chúc mừng sinh nhật của một người con trai của những người anh hùng.

Vay gian nan để được anh hùng

Tôi nhớ hồi học lớp 10, có một lần Bình béo nhìn tôi rất chăm chú rồi hắn nói :“ Trông mày như một cái thùng phi đầy mỡ sau đó ném mấy cục xương vào”.Từ đó mọi người gọi tôi là “Quý nhẽo”và hầu như quên hẳn cái tên “Quý già” mà Tuấn Phúc đặt cho trước đó.
Bây giờ ngồi đây viết lại những dòng này tôi cứ phục lăn thằng bạn: có lẽ hắn đã nhìn thấy từ hồi ấy thân thể của tôi ở 39 năm sau. Chứ hồi ấy tôi làm sao béo bằng hắn được. Rõ ràng là một cái tên không được hay lắm nhưng không hiểu sao tôi lại thấy thinh thích cái tên này.Có lẽ vì hồi còn đi “ cưa cẩm”cái tên này gây ra cho các cô gái cảm giác về một người hiền lành, vô hại và vì thế dễ mất cảnh giác.Nhiều cô nghĩ rằng tôi chắc là một người yếu đuối lắm, nên thậm chí còn muốn che chở cho tôi.Bây giờ tôi hiểu là thằng bạn đã làm PR cho mình.Nghĩa là hắn không chỉ cho tôi một cái tên. Cho nên thỉnh thoảng thấy các ca sĩ thời nay loay hoay tìm cách lăng xê, quảng bá tên tuổi, tôi hay cười thầm: điều này tao biết từ hồi thanh niên!.
Vào khoảng cuối năm thứ nhất ĐHQS có một lần tôi nghe mấy bạn Trỗi ôm đàn ghi-ta và hát một bài hát rất hay.Nhạc thì “đạo” của nhạc phim”Những kẻ báo thù không bao giờ bị bắt”,lời thì rất” tâm trạng”:”Chỉ còn đêm nay mỗi đứa sẽ đi một nơi,chẳng còn thấy nhau sớm hôm chim đàn lẻ bóng,trời xanh bát ngát bạn hỡi thấu chăng lòng ta...”.Về sau được biết bài này do Bình béo sáng tác khi chia tay anh em.Lúc đó tôi nghĩ thằng này kể ra cũng rất “nghệ”.
Cũng như muôn triệu người khác, cuộc đời tôi cũng có lúc thăng trầm.Nhưng kể cả những lúc khánh kiệt, chỉ còn hai bàn tay trắng tôi vẫn AQ:tôi còn giàu hơn ối người khác một cái tên.
Vì thích cái tên này nên tôi hay có dịp nghĩ về Bình béo ,mặc dù chẳng bao giờ được gặp lại hắn kể từ khi ra trường.Cho đến khi sang đây được đọc “Đời bạn tôi” của Thủy bều thì tôi thầm trách số phận sao lại nghiệt ngã với thằng bạn tôi đến thế! Tự trong thâm tâm, lúc nào tôi cũng mong mỏi rồi đây sẽ có ngày thằng bạn sẽ được hưởng những ngày tươi sáng.
Bẵng đi 37 năm sau cho đến đầu năm nay tôi được về phép HN. Chỉ sau 2 ngày đã thấy H.Thành nhắn vào máy :”Ra quán Lan Chín,Lê Đại Cương chiêu đãi”. Thằng bạn Đại Cương lúc nào cũng chu đáo: cá mang từ Việt –Trì về, rượu nếp cất từ nếp của Lào, rượu trắng chính hiệu của Đức...tất cả những thứ đó cộng với sự xúc động và việc thay đổi đến 6 múi giờ làm cho tôi có một cảm giác sung sướng như được đi trên mây...Ngồi một lúc thì thấy một cháu gái có một vẻ đẹp rực rỡ, tác phong rất dứt khoát và nhanh nhẹn bước vào và đi theo sau lại chính là Bình béo . Tôi rất muốn nhảy ra ôm thật chặt thằng bạn( thú thật là điều này từ vài chục năm nay tôi chỉ làm với người khác giới). Vân Hùng sà đến và thế là bảng thành tích của cháu gái được kể ra.Cháu đã liên tục giành được nhiều huân chương và hiện là hạt giống của đội tuyển võ thuật HN. Cháu bé này chính là đứa cháu mà Thủy”bều” kể Bình béo phải mang sang hàng xóm bú nhờ.Bên cốc bia, Bình béo kể về mối tình nơi rừng xanh núi đỏ, về chuyện làm ăn ổn định cuộc sống,về chuyện nuôi dạy những đứa con, hướng chúng đến thiên nhiên và thể thao...Nhìn cô cháu gái tràn đầy nhựa sống, nhìn thấy ánh mắt của Bình béo khi kể về con, tôi chợt hiểu, thằng bạn tôi đang sở hữu niềm ước mơ không chỉ của các ông bố, bà mẹ VN mà còn của toàn thế giới.Tôi tự hiểu thằng bạn tôi đang có những ngày tươi sáng! Nghĩa là hắn chẳng hề guc ngã mà vẫn trụ vững và vươn lên một cách ngon lành. Tôi quyết định xếp tên hắn vào sách “giáo khoa” của riêng mình. Sách này trước là để dạy mình, sau là để dạy con.
Hôm nọ vô tình đọc được câu thơ “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Tôi nghĩ câu thơ này hơi “bị động” nên xào xáo lại cho “chủ động” hơn và còn một mục đích khác không anh hùng chút nào là “ câu khách”!.

Một người hàng xóm Mỹ

Không biết tại sao, tôi có cảm tưởng khi đi ra“ ngoài“, người Mỹ hay muốn tỏ ra mình là con Công , con Phượng (còn xung quanh là sẻ cả). Cho nên cứ mỗi khi nhìn thấy những người Mỹ này là tôi lại có ý nghĩ ,hồi trước ở VN mình họ phải chấp nhận làm con chim Chích , chim Sâu thì chắc là họ cay đắng lắm.
Nhưng có một hôm, có hai vợ chồng người Mỹ vào cửa hàng của tôi, thái độ rất khiêm tốn nhún nhường. Đôi vợ chồng ấy, tự giới thiệu họ đến từ Mỹ, đến đây học đại học và ở ngay bên cạnh. Thế là chúng tôi nhận nhau là hàng xóm.
Hồi ấy tôi còn có một cửa hàng ở cạnh một quán ăn VN. Chủ quán trước đây là nữ công nhân đội Quang Xèng, nhà ở thị xã Vĩnh Yên. Đôi vợ chồng người Mỹ này ở bên trên quán ăn. Tôi thỉnh thoảng tôi lại sang ăn cơm trưa. Vì đã ở VY đến 4 năm nên tôi được coi là „đồng hương“. Chủ quán thường dọn cho tôi cơm với cá kho gừng, rau muống luộc… Những bữa trưa như thế làm cho tôi thấy rất thoải mái.
Có một lần , đến ăn bữa trưa thi gặp anh chồng người Mỹ cũng đang ăn cơm ở đấy. Chúng tôi chào nhau như những người quen. Sau khi ăn cơm xong ,đang ngồi uống nước thì cậu ta mang bản đồ đến hỏi tôi về Leipzig. Phát hiện ra cậu ta chưa biết nhiều về LPz nên tôi chỉ mấy chỗ nên đi và nói thêm :- Ở Mỹ chỉ có đất đá mới đọ được tuổi với những vật có ở đây thôi, nên tranh thủ mà xem đi!.
Thấy cũng thân tình, tôi hỏi cậu ta đến đây học ở trường nào? Cậu trả lời ngay:_học ởđại học tổng hợp Leipzig (UNI) ,môn Hóa. Tôi quá sửng sốt :
_Tại sao lại phải đến tận đây học Hóa, học ở Mỹ không tốt hơn sao?
_ Vì „Ali Hóa học „ đã học ở đây!
Nhắc đến „Ali hóa học“, chắc một người lính bình thường nào cũng phải cảm thấy may mắn vì đã không phải làm một viên tướng ô nhục. Ông tướng này đã dùng chất đôc Hóa học với chính đồng bào của mình.
Thú thật cho đên tận bây giờ tôi cũng chưa tận mắt đọc một tài liệu nào nói về chyện này, mặc dù có nhiều người Đức xác nhận chuyện này. Cho nên lúc ây tôi đã tỏ ra rất ngạc nhiên.
Và sau đó chúng tôi nói rất nhiều về UNI. Nữ thủ tướng đầu tiên củ BRD, bà Merkel, lúc ấy còn là thủ lĩnh của đẩng đối lập CDU, đã học ở UNI Leipzig từ 1973-1978 môn Lý và bằng diplom „sehr gut“ (Ưu).Tuy nhiên tôi lại bảo cho cậu ấy biết UNI đã không nhận Anhxtanh vào làm việc. Tôi còn chỉ cho cách cậu ấy tìm ra bức thư của UNI gửi cho Anhxtanh để từ chối đơn xin việc của ông này .
Trước cửa UNI về phía nhà hát opera có một bức phù điêu miêu tả Marx cùng với các tầng lớp lao động. Tôi khuyên cậu ấy nên xem vì người ta sắp dỡ đi rồi (nay thì đã không còn ở đấy nữa). Và còn nói cho cậu ấy biết cách nhìn thấy điểm đặc biệt của bức phù điêu ấy. Sau đó chúng tôi nói sang chuyện Marx. Có lễ trong cùng 1 đơn vị thời gian cậu ấy chưa từng được nghe về Marx nhiều như thế nên khi chia tay cứ nhất định mời tôi 1 cốc bia. Tôi lịch sự từ chối lấy cớ là phải lái xe. Uống 1 cốc bia tươi 200ml, đối với 1 người nặng 70 kg như tôi, mà 5 tiếng nữa mới phải lái xe về nhà, thì đúng là hoàn toàn không vấn đề gì.
Tôi đã từ chối vì cái cách mà cậu ấy đến Leipzig để học môn Hóa cộng với những việc mà đất nước của cậu ấy đã làm, đang làm và muốn làm đã không thể đảm bảo chắc chắn với tôi rằng :cậu sinh viên Hóa rất hiền lành hôm nay, ngày mai không trở thành một „Ali hóa học?!“.

Những tiếng loa ở phố Trần Nhật Duật

Thằng Đoàn Phú Hòa đã có một bài viết quá hay về HN. Tôi biết sau khi đọc bài này thì trong một thời gian dài nhiều thứ đối với tôi sẽ trở nên nhạt nheõ. Té ra, để viết được hay thì điều chủ yếu là phải biết gìn giữ tâm hồn và biết cân nhắc các trải nghiệm. Chứ không phải bằng mọi cách phải đút đầu cho được vào trường viết văn Ngyễn Du! Đến đây tôi lại đồ rằng , khi viết bài ấy, Hòa gù đã được ông bác ruột nó- nhà văn quá cố Đoàn Phú Tứ, người đã phát hiện ra thời gian có màu- „giúp sức“. Có lẽ ông ấy là thi sỹ đầu tiên trên thế giới phát hiện ra thời gian không những có màu mà lại còn có hương. Thật là một bậc đại kỳ tài.
Hòa gù nhắc đến bánh gối, Quang xèng nhắc đến „chế mà phù“, ai đó nhắc đến bi don don, táo dầm… Từng ấy thời gian nhưng chẳng ai trong chúng ta quên được hương vị của những thứ đó-những thứ mà những người bán rong bán trên vỉa hè-Tại sao?
Gần đây những người bán rong tràn về HN,“ nhiều nơi gây ra cảnh nhếch nhác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông và mỹ quan thành phố“. Có những cuộc họp rất quan trọng bàn về chuyện này. Xu hướng là sẽ tiến tới cấm triệt để những người bán rong. Trả lại cho HN tất cả những vỉa hè. Hà nội lúc ấy sẽ đẹp hơn?
Trong những cuộc họp ấy tôi không thấy có sự tham gia của những người bán rong.
Những người bán rong ấy còn không thể làm được nhiều chụyện khác. Họ đã không thể biến một công thự thành nhà riêng. Họ không thể có được bí mật của một quy hoạch để mua rẻ được một ngôi nhà, bởi vì có biết được họ cũng chẳng đào đâu ra tiền. Họ cũng không thể „nắn“ được con đường trong một dự án cho chạy qua nhà mình. Những người bán rong ấy càng không thể „đạp“ HN rớt xuống thê thảm trong bảng xếp hạng về hấp dẫn đầu tư để leo lên chức vụ cao hơn…
Giá như nhà nước khóa chặt ngân sách, cắt đứt mọi bổng lộc, ngưng trả lương, thay vào đó phát cho mỗi vị ngồi họp một gánh hàng rong. Và buộc các vị ấy phải nuôi sống gia đình bằng gánh hàng rong ấy. Chắc hẳn lúc đó sẽ có một giải pháp tuyệt vời cho vỉa hè Hà nội, trong một thời gian ngắn đến không ngờ.
Hà nội là mãi mãi đẹp trong tôi, và với tôi, một người dân không có khả năng làm lãnh đạo, làm xấu HN nhất quyết không phải là những người bán hàng rong!
Ở phố Trần Nhật Duật khúc Ô Quan Chưởng, chỗ ấy là bến xe rất phức tạp. Có 4 bà già bán trà đá, tuổi khoảng 60.Lấy lãi từ những cốc trà đá các bà ấy đã tự ý đi mua loa, băng đỏ và tự nguyện làm đội trật tự bến xe. Đã hàng trăm lần đội trật tự ấy đã đè được bọn kẻ cắp xuống đất, lấy lại được, có lần đến 20 tr. đồng cho người bị hại. Có lần bọn lưu manh đã dọa giết-chúng tôi đã 60 tuổi còn sợ gì chết!. Những „nữ hiệp trà đá“ ấy đã từ chối tiền mua chuộc cũng như tiền đền ơn.
Biết đâu vài chục năm nữa, con gái của bố Lê Đại Cương khi nhắc đến HN sẽ kể đến những tiếng loa này. Ở bên những cốc trà đá ở con đường đầy bụi bặm ấy chắc chắn người ta sẽ cảm nhận thấy sự thuần khiết long lanh của khát vọng muốn được sống lương thiện.
Trong số tất cả chúng ta có lẽ đấy là những người muốn Hà nội đẹp nhất.

Thiên Đường nơi trần thế




Có hay không một thiên đường ? Nhân loại không phải ai cũng trả lời có. Những người không tin vào đức chúa Trời thì ngày nay vẫn phải cảm ơn ông Giêsu vì ít nhất ông ấy cũng cho họ mấy ngày nghỉ. Nhưng hôm nay những ai đi xem chương trình Holiday in Ice ở nhà thi đấu Arena Leipzig thì đều có cảm giác như đã nhìn thấy thiên đường. Ít nhất là trong 2 tiếng đồng hồ. Chỉ có âm nhạc, trượt băng và ánh sáng rực rỡ huyền ảo. Không có tiếng người, không có lấy cả lời giới thiệu- những tiếng ấy chỉ có nơi trần thế. Các vũ công đem hết tài nghệ, nhiệt tình , sức lực, cảm hứng chỉ cốt để chứng minh :có một thiên đường trên trần thế!
Tiếng vỗ tay tán thưởng vang dội, kéo người ta về với thực tai: những tiếng động như thế chỉ có ở trần gian. Xin gửi tới các bạn một vài tấm ảnh với hy vọng mong manh là có thể chia sẻ được cảm xúc. Nhưng liệu có ai chụp ảnh được thiên đường?

Muốn nghe cho rõ cho tinh

Muốn nghe cho rõ cho tinh…
Cách đây 19 năm ,cũng đúng vào dịp này, khi biết tôi chuẩn bị đi Đức, anh Duật nhắn qua anh Vũ Cao Phan để tặng tôi một câu chuyện. Anh bảo:- Hồi trước loài người vốn không có dây điện. Cho đến khi có hai người Đức tranh nhau một đồng xu, không ai chịu ai, kéo mãi,kéo mãi cho đến khi đồng xu thành dây điện. Kể xong cho tôi, anh Phan nói thêm:-Phạm Tiến Duật bảo mày đi Đức về đừng mang theo thói“ sản xuất dây điện“nhé. Tôi rất thú vị với câu chuyện này . Từ đó ,ở trên đất Đức cứ mỗi khi thấy người Đức “sản xuất dây điện“, tôi lại cười thầm và nghĩ đến anh.
Khi anh Duật về làm ở báo văn nghệ, có một lần anh Khai tôi, anh Phan, anh Duật ngồi nói chuyện với nhau về „Cù lao Tràm“ của anh Nguyễn Mạnh Tuấn. Vài ngày sau tôi được đọc bài nhận xét của anh về „Cù lao Tràm“ trên báo Văn nghệ. Tôi rất sửng sốt khi thấy anh phát hiện ra rất nhiều điều trong cuốn tiểu thuyết này mà mặc dù đã đọc nó rất kỹ nhưng tôi lại không hề phát hiện ra. Nhưng ngạc nhiên hơn, khi nói ra điều này với anh Khai tôi, thì anh Khai cười và bảo:- Phạm Tiến Duật bảo với tao hắn viết ra bài này từ những điều nghe được từ tao và Cao Phan chứ hắn đã đọc „Cù lao Tràm „đâu! Việc cảm thụ văn học ở anh thật lạ lùng và đặc biệt!.
Khi thằng Thuận cháu tôi (con anh Khai) khoảng hơn 10 tuổi gì đó, có một lần anh đến thăm anh Khai và nhân tiện đọc tặng cháu Thuận một bài thơ:
Tai là con mắt của đời,
Nghe thiên nhiên lại nghe đời phân minh.
Muốn nghe cho rõ cho tinh,
Phải dem tim óc của mình mà nghe.
Cháu Thuận bây giờ đã lớn, đã có vợ và có con. Còn tôi thì sau khi nghe thấy bài thơ này đã nghộ ra một điều : -Những người thực dụng thích nghe bằng tai như tôi thì để trở thành thi sỹ là điều không thể !
Khi biết được tổng chiều dài của tất cả các con đường mà đế quốc La mã đã làm » chẳng là cái gì « so với độ dài các con đường mà các cô gái thanh niên xung phong của chúng ta đã làm trong thời chống Mỹ,anh đã tạo ra một cái giật mình của cô thanh niên xung phong :
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại
Sẽ giật mình đường mới ta xây
Ðã có độ dài hơn cả độ dài
Của đường xá đời xưa để lại
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái
Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngòeo trên mặt đất.
Cái giật mình này chắc chắn sẽ làm bàng hoàng nhiều thế hệ.
Hôm qua được tin anh đã đi xa. Nhưng anh nhất định sẽ trở về trong tâm tưởng của những người yêu thơ anh. Nhưng anh đi đâu ? Hay giờ phút này anh lại về với đại ngàn Trường Sơn để mắc võng cho thỏa nỗi nhớ

Tấm lòng Bồ tát




Christian không thể đi , không thể vuốt ve ai và nếu có ngứa mũi thì cậu cũng không thể nào tự gãi được . Cách đây 26 năm , khi sinh ra , cậu ta đã không có tay lẫn chân . Thế mà chàng trai này chẳng có một chút nào hoang mang trước số phận khắc nghiệt ấy. Cậu học đại học , có vô số bạn bè , thỉnh thoảng lại mang mình ra đùa cợt , và trong trái tim thì đầy tràn những ước mơ. Một người bạn thân của cậu đã nhận xét :- Cậu ấy lúc nào cũng đầy năng lượng .

Có lẽ cứ mối lần vượt qua mỗi khó khăn lại làm cậu ấy cứng rắn lên . Khó khăn , khắc nghiệt của đời cậu thì chồng chất . Mà khắc nghiệt đầu tiên là từ khi mới lọt lòng ra bố mẹ đẻ cậu đã từ chối cậu.

Bà Gisela năm nay 74 tuổi . Bà nhận Christian làm con nuôi khi cậu mới 10 tháng tuổi. Từ đấy bà là tay , là chân , là các cử động của cậu . Hai mươi sáu năm nay bà và Christian nằm ngủ trên cùng 1 giường . Bà lo giữa đêm khuya nếu có chuyện gì thì trở tay không kịp . Cũng từng ấy thời gian bà tự tay đánh răng , rửa mặt , tắm rửa và bế cậu đi toalet . Cơ thể 19 cân của cậu cúng rất đặc biệt , cứ ra mồ hôi suốt ngày vì thế mỗi ngày bà Gisela phaỉ thay quần aó cho cậu đên 10 lần .

Christian chẳng ngại những cái nhìn tò mò ở ngoài đường , „tôi cứ phớt lờ , chẳng ngại gì cả , chủ động làm quen và cuối cùng thì lại đùa cợt với họ „ Cậu còn nói :- chẳng có gì người khác làm mà tôi lại không làm được . Cậu là fan của đội Hansa Rostok , chơi Keyboard và muốn đến một lúc nào đó sẽ được biểu diễn . Bằng một cái đũa ngậm ở mồm cậu viết thư bằng máy tính cho bạn bè …Cậu mong ước rồi đây sẽ hành nghề độc lập , tự kiếm được tiền. „Tôi ao ước có một gia đình hạnh phúc „ và cậu cười „Chẳng ai biết được rồi cái gì sẽ tới ?“.

Cậu còn nói :- Tôi thấy rất hạnh phúc với cuộc sống hiện tại này . Nếu có tay , có chân thì tôi biết làm gì với chúng ?

Nhìn ảnh cậu thấy rõ đấy là một người hạnh phúc .

Bà Gisela nói :- Chưa có một giây nào tôi ân hận vì đã nhận Christian làm con nuôi . Nó là một chàng trai tuyệt vời.

Bà Gisela là người Đức , 74 tuổi , tôi không biết bà theo tôn giáo nào ? . Nhưng quốc tịch , tuổi tác , tín ngưỡng… có ý nghĩa gì không khi tôi muốn nói rằng đấy là một bà cụ có tấm lòng Bồ tát ? .

Sách hay nhớ lâu

Tạ Quang Vinh(V.) là một truyền nhân của người ham đọc sách nổi tiếng nhất của VN. Vì thế, theo tôi, thái độ của V. đối với sách vở rất đặc biệt. Hồi còn ở bên này, V. sống cách tôi 500 km, nên chủ yếu là chúng tôi gặp nhau online. Một hôm , V gọi điện cho tôi và nói:

- Mình vừa đọc xong một quyến sách đã cũ, tác giả cũng đã qua đời nhưng mình cảm thấy như ông ấy hiện về trước mặt mình và cất lên những lời viết ở trong ấy!

Tôi nhớ đến cảnh cậu bé Aliosa (Maxim Gorki) đã giơ cuốn sách lên hướng mặt trời để tìm xem trong những tờ giấy toàn chữ ấy có cái gì ở bên trong mà hấp dẫn và lôi cuốn cậu ta đến thế?

Có lẽ tuy qua điện thoại nhưng V. cũng cảm nhận được hết nỗi ham muốn của tôi, và chủ yếu có lẽ là nể tình lính Trỗi nên hai ngày sau, qua bưu điện, tôi nhận được được „Hồi ký“ của Đặng Thai Mai, nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1985.

Quyển sách đã ố vàng, các bức ảnh hầu như không nhìn thấy rõ nữa, chất lượng giấy in hồi đó phải nói là rất tệ : chỉ cần mạnh tay một tý là rách ngay ! Vì thế tôi chỉ có thể đọc nó vào ban đêm , khi mọi việc đã xong xuôi và quyển sách được đặt ở trên bàn. Tôi rất muốn biết thời ấy-thời của tác giả- người ta đã sống như thế nào ? Tác giả là người Nghệ An nên cách ông viết rất chân thành, không màu mè và có nhiều đoạn cực kỳ nhiều cảm xúc. Tôi đã đọc lại rất nhiều lần đoạn ông tả lại phiên tòa đại hình xử cụ Phan Bội Châu mà ông được trực tiếp tham dự. Theo ông thì :“lời tự bào chữa của cụ Phan không hề có tý gì gọi là muốn tránh né trách nhiệm sợ hình phạt“, ngược lại cụ kiên quyết lên án chế độ thực dân và cuối cùng thì cụ Phan đã „đứng dậy cúi chào hai nhà luật gia Pháp và họ cũng đã kính cẩn chào lại“(những người đã bào chữa cho cụ). Chính quyền thực dân đã không thể kết án tử hình cụ.

Năm 1979, tôi được điều động về công tác ở sân bay Đà nẵng. Đối với đời lính tráng thì đây là một dịp may hiếm có với tôi. Chỉ cần vượt qua đèo Hải Vân sang bên kia là đến Huế , quê ngoại của tôi. Sau nhiều lần trình bày „đứt lưỡi“ thì cuối cùng ông trung đoàn trưởng cũng cho tôi về thăm quê. Và đấy cũng là lần duy nhất tôi về quê ngoại cho đến tận bây giờ. Ngôi nhà của gia đình tôi nay đã thuộc người khác (mà tôi cũng không biết ở đâu). Lang thang một hồi, tôi quyết định đến thăm mộ cụ Phan. Mộ cụ nằm trong khuôn viên nhà cụ, phía dưới chân mộ là mộ của mấy con chó cụ nuôi, mộ con nào cũng có văn bia do cụ viết. Các anh chị lớn của tôi đều đã được đến thăm cụ Phan , chắc là cũng ở tại nơi đây? Trong ngôi nhà tưởng niệm có bày rất nhiều tác phẩm của cụ và viết về cụ. Lật qua vài trang sách bày , tôi đọc được những dòng cụ viết:-„Tôi làm trăm việc hỏng cả một trăm. Tội tôi đáng chết, may mà đồng bào thương, tha cho được sống. „. Và vì quá vội tôi cũng không biết câu ấy cụ viết ở sách nào?

Gần đây khi xem VTV4 , tôi thấy giáo sư Nguyễn Đình Chú nói câu ấy cụ viết trong „Phan Bội Châu niên biểu“. Theo giáo sư thì đây là một tập hồi ký đứng vào hàng đặc biệt không có tập hồi ký nào sánh được . Trong ấy cụ đã liên tục phủ định mình, hoàn toàn không có ý định đề cao bản thân .

Vậy là tôi đã phần nào hiểu ra tại sao thế hệ của tác giả „Hồi ký“ lại khâm phục cụ Phan đến thế. Khi cụ bị xử ở tòa đại hình thì cụ đã 60 tuổi . Cụ đã mang hầu hết cả cuộc đời mình ra để tự nguyện làm một cánh buồm . Nhưng tiếc thay ngọn gió thời thế đã không thổi vào cánh buồm ấy, khiến cho con thuyền khát vọng đã không đến được bến bờ . Trên con thuyền ấy chỉ chở khát vọng của cả một dân tộc đang bị áp bức chứ không chở bất cứ một thứ gì của riêng cụ . Tuy vậy trước dân cụ vẫn nhận tội chết. Tội ấy trước tòa đại hình của thực dân Pháp cụ đã dứt khoát khước từ . Khước từ không phải vì sợ hãi.

Bây giờ đây khi nghĩ đến những lời gan ruột của cụ Phan tôi lại có cảm giác bàng hoàng như trước mắt tôi hiện ra một tảng núi sừng sững mà người đức mỏng như tôi không bao giờ có hy vọng được nhìn thấy ngọn. Trên ngọn núi ấy có lẽ là những khối tâm sự lớn lao mà cụ muốn gửi „chim ngàn , cá biển“?

Nhưng đồng thời cũng khi nghĩ đến những lời gan ruột ấy tôi lại cảm thấy trong lòng dâng lên lòng tự hào vô bờ bến được làm đồng bào của cụ.